Thách thức trong quá trình giao lưu văn hóaLịch sử văn hóa Việt Nam đã trải qua 3 lần tiếp biến. Lần thứ nhất là thời kỳ tiếp nhận văn hóa Ấn Độ, Trung Quốc... trong thời cổ, trung đại để làm giàu thêm văn hóa bản địa. Những yếu tố văn hóa nước ngoài thời kỳ này có ảnh hưởng khá sâu sắc, toàn diện theo 2 con đường: cưỡng bức và hòa bình. Dù theo con đường nào, chúng ta vẫn giữ được bản sắc văn hóa dân tộc và tiếp thu những tinh hoa văn hóa ngoại nhập làm giàu có và phong phú thêm văn hóa dân tộc. Lần thứ hai là từ nửa sau thế kỷ XIX đến năm 1945, chủ yếu là ảnh hưởng của văn hóa phương Tây. Đây là cuộc “ép duyên” văn hóa Đông - Tây, song cũng là một tất yếu lịch sử của quá trình giao lưu và tiếp biến văn hóa. Sau khi cơ bản bình định xong các phong trào yêu nước, chính quyền thực dân Pháp ồ ạt du nhập văn hóa chính quốc vào thuộc địa với những ý đồ có lợi cho chủ nghĩa thực dân. Sự du nhập này, lập tức bị nền văn hóa bản địa phản kháng mạnh mẽ như một lẽ tự nhiên. Song, cũng có không ít tinh hoa của văn hóa phương Tây đã được chúng ta tiếp thu. Lần thứ ba là từ sau chiến tranh thế giới thứ hai đến nay. Luồng văn hóa từ phương Tây vào Việt Nam góp phần làm thay đổi diện mạo văn hóa nước nhà. Những năm gần đây, văn hóa nước ngoài đã và đang xâm nhập một cách ồ ạt vào Việt Nam. Chủ thể đón nhận những làn sóng văn hóa ngoại nhập một cách hồ hởi nhất chủ yếu là tầng lớp trẻ - thế hệ tương lai của đất nước. Việc tiếp thu văn hóa nước ngoài một cách thụ động, thiếu chọn lọc, thiếu “gạn đục khơi trong” đang để lại những hậu quả khó lường. Bản chất của văn hóa là hướng tới chân - thiện - mỹ, ngày càng toàn diện và có tính quốc tế hơn. Song trong quá trình lịch sử của mình, văn hóa còn có những “bước lùi”, mà một trong những “bước lùi” đó chính là mặt trái của quá trình tiếp nhận văn hóa nước ngoài, là nhận thức và thái độ chưa đúng của giới trẻ đối với văn hóa truyền thống.Trên mặt trận tư tưởng, điều tai hại nhất là những thế lực thù địch sử dụng các tác nhân văn hóa, văn nghệ có nội dung xấu với âm mưu, thủ đoạn bôi nhọ chế độ, phá hoại cách mạng… thông qua hệ thống in-tơ-nét và các phương tiện truyền thông đại chúng hiện đại, khiến một số người do thiếu bản lĩnh, thiếu trình độ nên chịu ảnh hưởng không nhỏ của những tư tưởng độc hại. An ninh chính trị, an ninh văn hóa đang đặt ra những vấn đề cấp bách. Nhiều quan điểm sai trái, phản động, trong đó có quan điểm sai trái trong văn học - nghệ thuật, trong đời sống chính trị sẽ dẫn đến những hậu quả vô cùng tai hại. Trên lĩnh vực văn học nghệ thuật, xu hướng tách văn học nghệ thuật khỏi xã hội, xa rời cuộc sống, xa rời chính trị là biểu hiện biến thái mới của quan niệm “nghệ thuật vị nghệ thuật” lỗi thời. Xu hướng “tự cởi trói”, tự do trong lựa chọn khuynh hướng, trường phái sáng tác từ lâu đã trở nên quen thuộc ở phương Tây. Khi vào Việt Nam, một mặt, nó cho phép nhiều năng khiếu trở thành tài năng, thỏa mãn nhu cầu ngày càng đa dạng của công chúng nghệ thuật; mặt khác lại hạ thấp những thành tựu văn nghệ cách mạng, làm rạn vỡ và thu hẹp đội ngũ công chúng, hình thành một thị hiếu, một lối sống, một hệ tư tưởng chối bỏ dân tộc, sùng ngoại, chạy theo những giá trị tiêu cực trong văn hóa ngoại lai. Chịu ảnh hưởng của những tư tưởng phản động nước ngoài, nhiều nhà văn đã nói và viết không đúng sự thật, không đúng bản chất của hiện thực, thậm chí xuyên tạc hình ảnh của Đảng, bản chất cuộc chiến tranh chính nghĩa của dân tộc ta hoặc ngợi ca, đề cao những tác phẩm đi ngược lại với những chuẩn mực, giá trị văn hóa chân chính của dân tộc...Trong lối sống của nhiều bạn trẻ ngày nay thể hiện rất rõ những vấn đề tiêu cực trong quá trình tiếp thu văn hóa nước ngoài. Đối với hôn nhân, truyền thống tốt đẹp của dân tộc là đề cao trinh tiết của người phụ nữ, cái tình đi đôi với cái nghĩa, tình có thể hết nhưng nghĩa thì bền chặt... Còn bây giờ, giới trẻ đang dậy lên những trào lưu như “sống thử”, “sống gấp”... Bên cạnh đó, thói quen tiêu xài hoang phí và theo đuổi những lợi ích vật chất, lối sống thực dụng là nét không đặc trưng cho con người Việt Nam cần, kiệm. Nhiều bạn trẻ lười học tập, lười lao động lại muốn mau chóng nổi tiếng nên tự tạo “xì-căng-đan” cho mình. Tiêu chuẩn về vẻ đẹp của người phụ nữ phương Đông truyền thống là “công, dung, ngôn, hạnh” bị biến dạng, nhường chỗ cho sự táo bạo, phô trương, thậm chí thác loạn... Có ý kiến cho rằng, một số thanh, thiếu niên không nhận thức đầy đủ về văn hóa thẩm mỹ của dân tộc, dẫn đến thị hiếu sai lệch, lệch chuẩn về giá trị đạo đức.Trong lĩnh vực giải trí, giới trẻ đang bị cuốn hút và mải mê chạy theo những trào lưu du nhập từ nước ngoài, thậm chí vấn đề đã lên đến mức báo động. Sức trẻ cộng với tâm lý thích khám phá những điều mới lạ, bắt kịp các trào lưu đang thịnh hành trên thế giới, như: manga (truyện tranh Nhật Bản), anime (phim hoạt hình Nhật Bản), thời trang Kawaii (Nhật Bản), thời trang Hàn Quốc... Nhiều bạn trẻ không ngại ngần chạy theo cả những trào lưu độc dị khiến chúng ta không khỏi giật mình, như hát cùng dao kéo, chụp ảnh quái đản, “hot boy” giả gái, nuôi thú độc...Trong lĩnh vực thương mại, hàng hóa nước ngoài tràn ngập thị trường Việt Nam, từ bánh kẹo, sữa, rượu, thuốc lá, thuốc tây cho đến hàng gia dụng, điện tử, ô tô, xe máy,... lấn át thị trường hàng nội và lại được người dân ưa chuộng với tâm lý sùng ngoại. Nó góp phần trực tiếp hoặc gián tiếp làm thay đổi bộ mặt văn hóa trong mỗi gia đình Việt trên tất cả các phương diện. Tuy nhiên, không phải thứ hàng ngoại nào cũng tốt. Nhiều thứ chứa “độc tố” đang xâm hại sức khỏe nhân dân ta theo đúng nghĩa đen, đồng thời cũng làm tổn hại “sức khỏe tinh thần” của mọi người.Một thực trạng nữa, đó là sự mai một các giá trị văn hóa truyền thống trong quá trình hội nhập, mở cửa giao lưu với văn hóa nước ngoài. Nét đẹp ru con bằng những câu ca dao đã thưa vắng dần. Ca dao, tục ngữ... vốn là kho tàng quý báu của quần chúng nhân dân, là những bài học về đối nhân xử thế, bài học làm người nuôi dưỡng tâm hồn từ thơ bé, hướng con người tới chân - thiện - mỹ đã và đang mai một dần trong đời sống tinh thần. Nghề truyền thống dệt thổ cẩm ở một số nơi, một số dân tộc thiểu số đang mất dần. Văn hóa trang phục hiện nay ở nhiều vùng đồng bào dân tộc thiểu số cũng bị mai một, nhất là trong giới trẻ. Họ chỉ thích mặc âu phục, quần bò, áo phông hơn là mặc trang phục truyền thống tự dệt, tự may. Trong âm nhạc cũng vậy, ở Tây Nguyên, số người biết chơi, biết chỉnh cồng, chiêng chủ yếu là các cụ già. Nhiều dân tộc khác thì những câu hát then, hát xẩm, ca trù, cải lương, chèo, tuồng,... không được ưa chuộng bằng nhạc trẻ.Góp phần hạn chế tiêu cực, xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộcThứ nhất, con người là chủ thể tiếp nhận các giá trị văn hóa. Muốn cho những “luồng gió độc” của văn hóa ngoại lai không xâm hại đến nền văn hóa dân tộc, chủ thể văn hóa đó phải có một bản lĩnh, một trình độ nhận thức nhất định. Đó là năng lực tự thân của mỗi cá nhân và quan trọng hơn là nó được vun trồng, nuôi dưỡng từ phía gia đình, nhà trường, xã hội. Muốn bảo tồn được các giá trị văn hóa dân tộc, đồng thời vẫn tiếp thu được các giá trị văn hóa nhân loại thì điều cốt yếu là phải tích cực tuyên truyền, giáo dục cho chủ thể văn hóa Việt Nam, đặc biệt là thế hệ trẻ, giúp họ hiểu được những giá trị của văn hóa truyền thống, có niềm tự hào, tự tôn dân tộc và nhận thức được các mặt tốt xấu, tích cực, tiêu cực của các luồng văn hóa ngoại lai.Thứ hai, phải làm cho văn hóa nội sinh trở thành một “thành trì” vững chắc, trong đó quan trọng là quán triệt sâu sắc tư tưởng, đường lối văn hóa của Đảng và Nhà nước về văn hóa, tiêu biểu là Đề cương văn hóa Việt Nam năm 1943, Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 khóa VIII của Ban Chấp hành Trung ương Đảng và nhiều văn kiện, tài liệu khác. Đề cương văn hóa Việt Nam do đồng chí Trường Chinh khởi thảo và công bố năm 1943, đến nay vẫn còn nguyên giá trị. Ba nguyên tắc đúng đắn được đưa ra là: Dân tộc hóa (chống mọi ảnh hưởng nô dịch và thuộc địa khiến cho văn hóa Việt Nam phát triển độc lập), Đại chúng hóa (chống mọi chủ trương hành động làm cho văn hóa phản lại đông đảo quần chúng hoặc xa đông đảo quần chúng), Khoa học hóa (chống lại tất cả những gì làm cho văn hóa trái khoa học, phản tiến bộ). Đề cương cũng chỉ rõ gốc rễ, nguồn cội của nền văn hóa mới - văn hóa xã hội chủ nghĩa - của đường lối văn hóa, văn nghệ của Đảng ta chính là hệ thống quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lê-nin về văn hóa, là thuyết duy vật biện chứng và duy vật lịch sử - hạt nhân lý luận của hệ tư tưởng của giai cấp vô sản. Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 khóa VIII năm 1998 là “kim chỉ nam” cho việc xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Phương hướng, nhiệm vụ xây dựng và phát triển văn hóa được chỉ rõ: phát huy chủ nghĩa yêu nước và truyền thống đại đoàn kết dân tộc, ý thức độc lập tự chủ, tự cường xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại… Nhiệm vụ cụ thể là: xây dựng con người Việt Nam trong giai đoạn cách mạng mới, xây dựng môi trường văn hóa, phát triển sự nghiệp văn hóa, nghệ thuật, bảo tồn và phát huy các di sản văn hóa, phát triển sự nghiệp giáo dục - đào tạo và khoa học - công nghệ...Thứ ba, tích cực đấu tranh, bài trừ các sản phẩm văn hóa độc hại, phản động, đồi trụy, đồng thời hạn chế hoặc gạt bỏ những hủ tục, như: tục đốt vàng mã, rải đồ vàng mã, tiền giả, tiền thật trên đường trong đám tang, vừa gây tốn kém lãng phí, vừa làm mất mỹ quan đường phố,… để tạo đời sống tinh thần lành mạnh hơn.Thứ tư, giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa bảo tồn và phát triển văn hóa truyền thống Việt Nam với tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại. Việc tuyên truyền, vận động nhân dân xây dựng đời sống văn hóa mới phải đi đôi với khắc phục thái độ xem nhẹ vai trò văn hóa và các giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc. Tiếp thu văn hóa nước ngoài là điều cần thiết, song chúng ta phải chủ động hội nhập, chắt lọc tinh hoa văn hóa bên ngoài để làm phong phú thêm nền văn hóa của dân tộc. Điều đáng lưu ý là trong quá trình toàn cầu hóa, nhiều nước phát triển có ý đồ áp đặt các giá trị văn hóa của mình cho toàn thế giới. Điều này sẽ đem lại nhiều thách thức hơn so với cơ hội, trong đó có nguy cơ đe dọa làm mất bản sắc văn hóa dân tộc. Trong bối cảnh đó, đòi hỏi việc tiếp thu và hội nhập văn hóa, cần chú trọng nguyên tắc: tôn trọng độc lập chủ quyền của nhau, không can thiệp vào công việc nội bộ của các nước khác, bình đẳng và cùng có lợi, tự chủ, tự quyết. Trong khi bảo tồn văn hóa nước nhà, tiếp thu văn hóa nước ngoài thì phải đồng thời chống cả hai xu hướng cực đoan là sùng ngoại lẫn sùng cổ. Thứ năm, đẩy mạnh và thực hiện tốt chủ trương xã hội hóa hoạt động văn hóa, nghệ thuật với phương châm “Nhà nước và nhân dân cùng làm” là một giải pháp tích cực. Lực lượng chủ yếu trong công tác này là các doanh nghiệp, các tổ chức xã hội và nhân dân (đóng góp sức người, sức của), đội ngũ văn nghệ sĩ (lao động và sáng tạo để có nhiều tác phẩm, công trình có chất lượng tốt, có tiếng vang và tầm ảnh hưởng sâu rộng trong xã hội, có tầm vóc thời đại)...Thứ sáu, tuyên truyền, giáo dục người Việt Nam, nhất là thế hệ trẻ biết yêu văn hóa dân tộc, tăng sức hấp dẫn của văn hóa truyền thống. Các cơ quan quản lý văn hóa, truyền thông cần tích cực hơn trong việc gìn giữ và quảng bá văn hóa truyền thống; Tổ chức các cuộc thi tìm hiểu về văn hóa truyền thống, tích cực giao lưu văn hóa để giới trẻ thêm tự hào và có lòng tự tôn dân tộc; Có tinh thần, thái độ phê phán, đấu tranh mạnh mẽ với lối sống chạy theo ngoại lai một cách mù quáng, chống lại những âm mưu đồng hóa văn hóa của các thế lực thù địch...Văn hóa là vốn quý của quốc gia, là tài sản vô giá, là động lực của sự phát triển. Văn hóa - kinh tế - chính trị là “kiềng ba chân”, là rường cột của quốc gia, chỉ cần một trong ba yếu tố đó yếu kém thì cả “công trình” sụp đổ. Bảo tồn, phát huy những giá trị văn hóa truyền thống và học hỏi, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, đấu tranh mạnh mẽ với những ảnh hưởng tiêu cực từ nước ngoài chính là góp phần xây dựng đất nước Việt Nam giàu mạnh./.
Thách thức trong quá trình giao lưu văn hóaLịch sử văn hóa Việt Nam đã trải qua 3 lần tiếp biến. Lần thứ nhất là thời kỳ tiếp nhận văn hóa Ấn Độ, Trung Quốc... trong thời cổ, trung đại để làm giàu thêm văn hóa bản địa. Những yếu tố văn hóa nước ngoài thời kỳ này có ảnh hưởng khá sâu sắc, toàn diện theo 2 con đường: cưỡng bức và hòa bình. Dù theo con đường nào, chúng ta vẫn giữ được bản sắc văn hóa dân tộc và tiếp thu những tinh hoa văn hóa ngoại nhập làm giàu có và phong phú thêm văn hóa dân tộc. Lần thứ hai là từ nửa sau thế kỷ XIX đến năm 1945, chủ yếu là ảnh hưởng của văn hóa phương Tây. Đây là cuộc “ép duyên” văn hóa Đông - Tây, song cũng là một tất yếu lịch sử của quá trình giao lưu và tiếp biến văn hóa. Sau khi cơ bản bình định xong các phong trào yêu nước, chính quyền thực dân Pháp ồ ạt du nhập văn hóa chính quốc vào thuộc địa với những ý đồ có lợi cho chủ nghĩa thực dân. Sự du nhập này, lập tức bị nền văn hóa bản địa phản kháng mạnh mẽ như một lẽ tự nhiên. Song, cũng có không ít tinh hoa của văn hóa phương Tây đã được chúng ta tiếp thu. Lần thứ ba là từ sau chiến tranh thế giới thứ hai đến nay. Luồng văn hóa từ phương Tây vào Việt Nam góp phần làm thay đổi diện mạo văn hóa nước nhà. Những năm gần đây, văn hóa nước ngoài đã và đang xâm nhập một cách ồ ạt vào Việt Nam. Chủ thể đón nhận những làn sóng văn hóa ngoại nhập một cách hồ hởi nhất chủ yếu là tầng lớp trẻ - thế hệ tương lai của đất nước. Việc tiếp thu văn hóa nước ngoài một cách thụ động, thiếu chọn lọc, thiếu “gạn đục khơi trong” đang để lại những hậu quả khó lường. Bản chất của văn hóa là hướng tới chân - thiện - mỹ, ngày càng toàn diện và có tính quốc tế hơn. Song trong quá trình lịch sử của mình, văn hóa còn có những “bước lùi”, mà một trong những “bước lùi” đó chính là mặt trái của quá trình tiếp nhận văn hóa nước ngoài, là nhận thức và thái độ chưa đúng của giới trẻ đối với văn hóa truyền thống.Trên mặt trận tư tưởng, điều tai hại nhất là những thế lực thù địch sử dụng các tác nhân văn hóa, văn nghệ có nội dung xấu với âm mưu, thủ đoạn bôi nhọ chế độ, phá hoại cách mạng… thông qua hệ thống in-tơ-nét và các phương tiện truyền thông đại chúng hiện đại, khiến một số người do thiếu bản lĩnh, thiếu trình độ nên chịu ảnh hưởng không nhỏ của những tư tưởng độc hại. An ninh chính trị, an ninh văn hóa đang đặt ra những vấn đề cấp bách. Nhiều quan điểm sai trái, phản động, trong đó có quan điểm sai trái trong văn học - nghệ thuật, trong đời sống chính trị sẽ dẫn đến những hậu quả vô cùng tai hại. Trên lĩnh vực văn học nghệ thuật, xu hướng tách văn học nghệ thuật khỏi xã hội, xa rời cuộc sống, xa rời chính trị là biểu hiện biến thái mới của quan niệm “nghệ thuật vị nghệ thuật” lỗi thời. Xu hướng “tự cởi trói”, tự do trong lựa chọn khuynh hướng, trường phái sáng tác từ lâu đã trở nên quen thuộc ở phương Tây. Khi vào Việt Nam, một mặt, nó cho phép nhiều năng khiếu trở thành tài năng, thỏa mãn nhu cầu ngày càng đa dạng của công chúng nghệ thuật; mặt khác lại hạ thấp những thành tựu văn nghệ cách mạng, làm rạn vỡ và thu hẹp đội ngũ công chúng, hình thành một thị hiếu, một lối sống, một hệ tư tưởng chối bỏ dân tộc, sùng ngoại, chạy theo những giá trị tiêu cực trong văn hóa ngoại lai. Chịu ảnh hưởng của những tư tưởng phản động nước ngoài, nhiều nhà văn đã nói và viết không đúng sự thật, không đúng bản chất của hiện thực, thậm chí xuyên tạc hình ảnh của Đảng, bản chất cuộc chiến tranh chính nghĩa của dân tộc ta hoặc ngợi ca, đề cao những tác phẩm đi ngược lại với những chuẩn mực, giá trị văn hóa chân chính của dân tộc...Trong lối sống của nhiều bạn trẻ ngày nay thể hiện rất rõ những vấn đề tiêu cực trong quá trình tiếp thu văn hóa nước ngoài. Đối với hôn nhân, truyền thống tốt đẹp của dân tộc là đề cao trinh tiết của người phụ nữ, cái tình đi đôi với cái nghĩa, tình có thể hết nhưng nghĩa thì bền chặt... Còn bây giờ, giới trẻ đang dậy lên những trào lưu như “sống thử”, “sống gấp”... Bên cạnh đó, thói quen tiêu xài hoang phí và theo đuổi những lợi ích vật chất, lối sống thực dụng là nét không đặc trưng cho con người Việt Nam cần, kiệm. Nhiều bạn trẻ lười học tập, lười lao động lại muốn mau chóng nổi tiếng nên tự tạo “xì-căng-đan” cho mình. Tiêu chuẩn về vẻ đẹp của người phụ nữ phương Đông truyền thống là “công, dung, ngôn, hạnh” bị biến dạng, nhường chỗ cho sự táo bạo, phô trương, thậm chí thác loạn... Có ý kiến cho rằng, một số thanh, thiếu niên không nhận thức đầy đủ về văn hóa thẩm mỹ của dân tộc, dẫn đến thị hiếu sai lệch, lệch chuẩn về giá trị đạo đức.Trong lĩnh vực giải trí, giới trẻ đang bị cuốn hút và mải mê chạy theo những trào lưu du nhập từ nước ngoài, thậm chí vấn đề đã lên đến mức báo động. Sức trẻ cộng với tâm lý thích khám phá những điều mới lạ, bắt kịp các trào lưu đang thịnh hành trên thế giới, như: manga (truyện tranh Nhật Bản), anime (phim hoạt hình Nhật Bản), thời trang Kawaii (Nhật Bản), thời trang Hàn Quốc... Nhiều bạn trẻ không ngại ngần chạy theo cả những trào lưu độc dị khiến chúng ta không khỏi giật mình, như hát cùng dao kéo, chụp ảnh quái đản, “hot boy” giả gái, nuôi thú độc...Trong lĩnh vực thương mại, hàng hóa nước ngoài tràn ngập thị trường Việt Nam, từ bánh kẹo, sữa, rượu, thuốc lá, thuốc tây cho đến hàng gia dụng, điện tử, ô tô, xe máy,... lấn át thị trường hàng nội và lại được người dân ưa chuộng với tâm lý sùng ngoại. Nó góp phần trực tiếp hoặc gián tiếp làm thay đổi bộ mặt văn hóa trong mỗi gia đình Việt trên tất cả các phương diện. Tuy nhiên, không phải thứ hàng ngoại nào cũng tốt. Nhiều thứ chứa “độc tố” đang xâm hại sức khỏe nhân dân ta theo đúng nghĩa đen, đồng thời cũng làm tổn hại “sức khỏe tinh thần” của mọi người.Một thực trạng nữa, đó là sự mai một các giá trị văn hóa truyền thống trong quá trình hội nhập, mở cửa giao lưu với văn hóa nước ngoài. Nét đẹp ru con bằng những câu ca dao đã thưa vắng dần. Ca dao, tục ngữ... vốn là kho tàng quý báu của quần chúng nhân dân, là những bài học về đối nhân xử thế, bài học làm người nuôi dưỡng tâm hồn từ thơ bé, hướng con người tới chân - thiện - mỹ đã và đang mai một dần trong đời sống tinh thần. Nghề truyền thống dệt thổ cẩm ở một số nơi, một số dân tộc thiểu số đang mất dần. Văn hóa trang phục hiện nay ở nhiều vùng đồng bào dân tộc thiểu số cũng bị mai một, nhất là trong giới trẻ. Họ chỉ thích mặc âu phục, quần bò, áo phông hơn là mặc trang phục truyền thống tự dệt, tự may. Trong âm nhạc cũng vậy, ở Tây Nguyên, số người biết chơi, biết chỉnh cồng, chiêng chủ yếu là các cụ già. Nhiều dân tộc khác thì những câu hát then, hát xẩm, ca trù, cải lương, chèo, tuồng,... không được ưa chuộng bằng nhạc trẻ.Góp phần hạn chế tiêu cực, xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộcThứ nhất, con người là chủ thể tiếp nhận các giá trị văn hóa. Muốn cho những “luồng gió độc” của văn hóa ngoại lai không xâm hại đến nền văn hóa dân tộc, chủ thể văn hóa đó phải có một bản lĩnh, một trình độ nhận thức nhất định. Đó là năng lực tự thân của mỗi cá nhân và quan trọng hơn là nó được vun trồng, nuôi dưỡng từ phía gia đình, nhà trường, xã hội. Muốn bảo tồn được các giá trị văn hóa dân tộc, đồng thời vẫn tiếp thu được các giá trị văn hóa nhân loại thì điều cốt yếu là phải tích cực tuyên truyền, giáo dục cho chủ thể văn hóa Việt Nam, đặc biệt là thế hệ trẻ, giúp họ hiểu được những giá trị của văn hóa truyền thống, có niềm tự hào, tự tôn dân tộc và nhận thức được các mặt tốt xấu, tích cực, tiêu cực của các luồng văn hóa ngoại lai.Thứ hai, phải làm cho văn hóa nội sinh trở thành một “thành trì” vững chắc, trong đó quan trọng là quán triệt sâu sắc tư tưởng, đường lối văn hóa của Đảng và Nhà nước về văn hóa, tiêu biểu là Đề cương văn hóa Việt Nam năm 1943, Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 khóa VIII của Ban Chấp hành Trung ương Đảng và nhiều văn kiện, tài liệu khác. Đề cương văn hóa Việt Nam do đồng chí Trường Chinh khởi thảo và công bố năm 1943, đến nay vẫn còn nguyên giá trị. Ba nguyên tắc đúng đắn được đưa ra là: Dân tộc hóa (chống mọi ảnh hưởng nô dịch và thuộc địa khiến cho văn hóa Việt Nam phát triển độc lập), Đại chúng hóa (chống mọi chủ trương hành động làm cho văn hóa phản lại đông đảo quần chúng hoặc xa đông đảo quần chúng), Khoa học hóa (chống lại tất cả những gì làm cho văn hóa trái khoa học, phản tiến bộ). Đề cương cũng chỉ rõ gốc rễ, nguồn cội của nền văn hóa mới - văn hóa xã hội chủ nghĩa - của đường lối văn hóa, văn nghệ của Đảng ta chính là hệ thống quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lê-nin về văn hóa, là thuyết duy vật biện chứng và duy vật lịch sử - hạt nhân lý luận của hệ tư tưởng của giai cấp vô sản. Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 khóa VIII năm 1998 là “kim chỉ nam” cho việc xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Phương hướng, nhiệm vụ xây dựng và phát triển văn hóa được chỉ rõ: phát huy chủ nghĩa yêu nước và truyền thống đại đoàn kết dân tộc, ý thức độc lập tự chủ, tự cường xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại… Nhiệm vụ cụ thể là: xây dựng con người Việt Nam trong giai đoạn cách mạng mới, xây dựng môi trường văn hóa, phát triển sự nghiệp văn hóa, nghệ thuật, bảo tồn và phát huy các di sản văn hóa, phát triển sự nghiệp giáo dục - đào tạo và khoa học - công nghệ...Thứ ba, tích cực đấu tranh, bài trừ các sản phẩm văn hóa độc hại, phản động, đồi trụy, đồng thời hạn chế hoặc gạt bỏ những hủ tục, như: tục đốt vàng mã, rải đồ vàng mã, tiền giả, tiền thật trên đường trong đám tang, vừa gây tốn kém lãng phí, vừa làm mất mỹ quan đường phố,… để tạo đời sống tinh thần lành mạnh hơn.Thứ tư, giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa bảo tồn và phát triển văn hóa truyền thống Việt Nam với tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại. Việc tuyên truyền, vận động nhân dân xây dựng đời sống văn hóa mới phải đi đôi với khắc phục thái độ xem nhẹ vai trò văn hóa và các giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc. Tiếp thu văn hóa nước ngoài là điều cần thiết, song chúng ta phải chủ động hội nhập, chắt lọc tinh hoa văn hóa bên ngoài để làm phong phú thêm nền văn hóa của dân tộc. Điều đáng lưu ý là trong quá trình toàn cầu hóa, nhiều nước phát triển có ý đồ áp đặt các giá trị văn hóa của mình cho toàn thế giới. Điều này sẽ đem lại nhiều thách thức hơn so với cơ hội, trong đó có nguy cơ đe dọa làm mất bản sắc văn hóa dân tộc. Trong bối cảnh đó, đòi hỏi việc tiếp thu và hội nhập văn hóa, cần chú trọng nguyên tắc: tôn trọng độc lập chủ quyền của nhau, không can thiệp vào công việc nội bộ của các nước khác, bình đẳng và cùng có lợi, tự chủ, tự quyết. Trong khi bảo tồn văn hóa nước nhà, tiếp thu văn hóa nước ngoài thì phải đồng thời chống cả hai xu hướng cực đoan là sùng ngoại lẫn sùng cổ. Thứ năm, đẩy mạnh và thực hiện tốt chủ trương xã hội hóa hoạt động văn hóa, nghệ thuật với phương châm “Nhà nước và nhân dân cùng làm” là một giải pháp tích cực. Lực lượng chủ yếu trong công tác này là các doanh nghiệp, các tổ chức xã hội và nhân dân (đóng góp sức người, sức của), đội ngũ văn nghệ sĩ (lao động và sáng tạo để có nhiều tác phẩm, công trình có chất lượng tốt, có tiếng vang và tầm ảnh hưởng sâu rộng trong xã hội, có tầm vóc thời đại)...Thứ sáu, tuyên truyền, giáo dục người Việt Nam, nhất là thế hệ trẻ biết yêu văn hóa dân tộc, tăng sức hấp dẫn của văn hóa truyền thống. Các cơ quan quản lý văn hóa, truyền thông cần tích cực hơn trong việc gìn giữ và quảng bá văn hóa truyền thống; Tổ chức các cuộc thi tìm hiểu về văn hóa truyền thống, tích cực giao lưu văn hóa để giới trẻ thêm tự hào và có lòng tự tôn dân tộc; Có tinh thần, thái độ phê phán, đấu tranh mạnh mẽ với lối sống chạy theo ngoại lai một cách mù quáng, chống lại những âm mưu đồng hóa văn hóa của các thế lực thù địch...Văn hóa là vốn quý của quốc gia, là tài sản vô giá, là động lực của sự phát triển. Văn hóa - kinh tế - chính trị là “kiềng ba chân”, là rường cột của quốc gia, chỉ cần một trong ba yếu tố đó yếu kém thì cả “công trình” sụp đổ. Bảo tồn, phát huy những giá trị văn hóa truyền thống và học hỏi, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, đấu tranh mạnh mẽ với những ảnh hưởng tiêu cực từ nước ngoài chính là góp phần xây dựng đất nước Việt Nam giàu mạnh./.
Ngoài ảnh hưởng của văn hóa trung quốc đến Việt Nam thì lịch sử Việt Nam cũng tương tự với Trung Quốc về bề dày lịch sử. Từ thời các triều đại Vua Hùng cho đến thời kỳ nghìn năm bắc thuộc đều có sự ảnh hưởng sâu sắc. Nước Đại Việt xưa là một vấn đề rõ nét nhất của sự ảnh hưởng bởi văn minh, văn hóa Trung Hoa, một trong những dân tộc lớn ngay cạnh chúng ta.
Tuy nhiên những sự ảnh hưởng đó không phải là sự tiêu cực, mà nó cũng là cơ hội để cho nền văn hóa của dân tộc ta ngày càng sâu sắc theo một cách riêng. Những thứ mà đã được chắt lọc sau đó làm cho phù hợp với văn hóa của người Việt.
Sau thời gian 1000 năm bị phong kiến phương Bắc đô hộ, trang phục cổ Việt Nam có nhiều nét tương đồng với Han Fu (một loại quần áo cổ trang của Trung Quốc, từ thời cổ đại hoàng đế cách đây 21 thế kỷ đến thời nhà Minh, là một trong những trang phục lâu đời nhất thế giới).
Đặc trưng của trang phục của mỗi quốc gia không chỉ phụ thuộc vào đặc trưng của môi trường khí hậu và thổ nhưỡng mà nó còn là sự ảnh hưởng của văn hóa và bề dày lịch sử. Do đó tầm ảnh hưởng của văn hóa Trung Quốc lên trang phục cổ của người Việt là một điều khá dễ hiểu. Điều này cũng vô hình chung góp phần tạo ra sự đa dạng và nét đẹp của dân tộc của mỗi quốc gia.
Ẩm thực Trung Quốc là một trong những nền văn hóa ẩm thực phong phú và đặc sắc bậc nhất. Điều này có được cũng chính là nhờ sự đa dạng trong văn hóa và bề dày lịch sử của quốc gia này.
Văn hóa ẩm thực Trung Hoa không chỉ thể hiện trong sự đa dạng mà nó còn là sự tinh tế đến kinh ngạc của nhiều món ăn từ sắc, hương và vị. Sự độc đáo này là do người Trung Quốc từ lâu đã quan niệm rằng một món ăn ngon cũng như là một tác phẩm nghệ thuật vậy. Mà tác phẩm nghệ thuật ấy không chỉ là sự phối hợp cảm nhận của ngũ quan mà còn là sự giao thoa của màu sắc, từ cách trình bày món ăn, tới sự cân bằng dinh dưỡng do các nguyên liệu có tính hàn, tính nhiệt kết hợp với nhau tạo nên.
Hơn 5000 năm lịch sử của một đất nước rộng lớn nên văn hóa ẩm thực Trung Quốc là tổng hợp đặc trưng của rất nhiều vùng miền trên cả nước. Ngoài ra, mỗi một vùng miền lại có đặc trưng riêng về khí hậu, thời tiết nên cách chế biến và sáng tạo trong ẩm thực đã tạo nên một bức tranh toàn cảnh đồ sộ độc đáo.
Sự đa dạng trong văn hóa ẩm thực của Trung Quốc đã ảnh hưởng rất lớn tới nền ẩm thực Việt Nam. Trong đó có nhiều món ăn của người Việt được biến tấu từ ẩm thực Trung hoa như vịt quay, bún nước, lẩu…
9. Sự ảnh hưởng về chính trị xã hội.
Trung Quốc là một quốc gia lớn có lịch sự lâu đời. Lịch sử cho thấy nước này đã từng đêm quân chinh phạt nhiều quốc gia xung quanh, trong đó có nước Đại Việt. Chính các cuộc xâm chiếm ấy đã làm cho Việt Nam phải gánh chịu những ảnh hưởng nhất định về văn hóa của họ đặc biệt là chính trị xã hội.
Biểu hiện rõ nhất của ảnh hưởng về chính trị xã hội chính là ở tổ chức bộ máy nhà nước thời xưa. Theo đó, nước ta cũng có thể chế tổ chức bộ máy tập quyền tương tự như Trung Quốc với người đứng đầu là vua, dưới có các tể tướng, tướng quân,…
Mỗi triều đại lại có những sự xắp xếp tổ chức bộ máy khác nhau cho phù hợp với khả năng cai trị của đất nước nhưng nhìn chung thì thể chế quân chủ đó đều có nhiều nét ảnh hưởng từ Trung Quốc.
Sự ảnh hưởng về chính trị của Trung Quốc cùng với những chính sách đồng hóa người Việt trong 1000 năm Bắc thuộc đã phần nào gây ra rất nhiều xáo trộn và thay đổi của văn hóa gốc đặc trưng của người Việt cổ. Tuy nhiên chính sức mạnh tinh thần dân tộc to lớn của người Việt Nam đã cải biến những khó khăn đó thành những đa dạng độc đáo về nhiều mặt chính trị – văn hóa – xã hội.